A. PHẦN MỞ ĐẦU
I/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trẻ em là tương lai của đất nước, của dân tộc. Đảng và nhà nước ta luôn coi trọng công tác chăm sóc giáo dục trẻ em.
Bác Hồ kính yêu đã nói:
Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn, biết ngủ biết học hành là ngoan.
Ngày nay, trong công cuộc xây dựng đất nước nói chung và xây dựng chiến lược con người nói riêng, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Muốn trẻ khoẻ mạnh và thông minh thì vấn đề dinh dưỡng phải hợp lý, lấy chăm sóc nuôi dưỡng phải có khoa học đây là một việc làm không thể thiếu được, là trách nhiệm của gia đình, cộng đồng và toàn xã hội. Vì vậy, vấn đề chăm sóc nuôi dưỡng trẻ ở trong trường Mầm non là một vấn đề hết sức quan trọng. Muốn tạo được thế hệ trẻ có sức khoẻ tốt, đáp ứng với thời đại khoa học hiện đại thì chúng ta phải chăm sóc nuôi dưỡng trẻ tốt, trẻ sẽ khoẻ mạnh và thông minh sẽ phát triển toàn diện về mọi mặt.
Ngay từ thời kỳ trẻ thơ cần giáo dục cho trẻ có thói quen vệ sinh trong ăn uống là một trong những biểu hiện và yêu cầu cần thiết của người có văn hoá, văn minh mà người lớn cần hình thành cho trẻ ngay ở giai đoạn tuổi mầm non. Đồng thời đây cũng là một trong những nhiệm vụ được đặt ra hàng đầu của giáo dục mầm non để chăm sóc- bảo vệ sức khoẻ cho trẻ, nhằm nâng cao thể lực, giúp trẻ có thể tham gia tốt tất cả các hoạt động khác như học tập, vui chơi, lao động góp phần phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ. Việc rèn luyện thói quen vệ sinh trở nên cần thiết và đặc biệt quan trọng đối với trẻ nhà trẻ 24-36 tháng tuổi. Nó có ý nghĩa to lớn trong việc củng cố cho trẻ những kỹ năng vệ sinh đơn giản trong công tác vệ sinh như: Khi ăn biết nhặt cơm vãi vào khay, không nói chuyện trong khi ăn, biết giữ gìn cơ thể sạch sẽ… Tuy nhiên, trong các bữa ăn ở lớp có nhiều trẻ vẫn còn có kỹ năng biết nhặt cơm vãi vào khay, vẫn nói chuyện khi ăn.
Chính vì vậy, cô giáo cần tạo cho trẻ có một tâm thế tốt khi đến lớp, một không khí mà trong đó có tình cảm yêu thương, tôn trọng trẻ. Điều này giúp trẻ nghe lời cô và phát triển khả năng bẩm sinh sẵn có của mình. Trẻ chỉ có thể phát triển, khoẻ mạnh, thông minh, có nề nếp, khi được sống trong môi trường thật sự yêu thương chăm sóc và chú ý khuyến khích, giúp đỡ của người lớn.
Là một giáo viên trực tiếp đứng lớp ở lứa tuổi nhà trẻ 24 - 36 tháng tuổi, tôi luôn xem công tác nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng đối với bản thân, nhất là việc dạy trẻ có thói quen vệ sinh tốt trong ăn uống. Vì vậy, đứng trước những vấn đề trên, bản thân tôi thực sự băn khoăn, trăn trở làm thế nào để trẻ có thói quen vệ sinh trong ăn uống. Do vậy, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Một số biện pháp giúp trẻ 24 - 36 tháng tuổi có thói quen vệ sinh trong ăn uống” làm đề tài cho bản sáng kiến của mình .
II/ MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI
Việc chọn đề tài “Một số biện pháp giúp trẻ 24 - 36 tháng tuổi có thói quen vệ sinh trong ăn uống” với mong muốn được chia sẻ với bạn bè đồng nghiệp một số kinh nghiệm để áp dụng trong việc chăm sóc giáo dục trẻ. Từ đó tìm ra những biện pháp để giúp trẻ nhà trẻ 24-36 tháng tuổi có thói quen vệ sinh trong ăn uống ở trường mầm non.
B. PHẦN NỘI DUNG
I/ CƠ SỞ LÝ LUẬN
Từ ngày xưa, con người đã biết mối quan hệ giữa vệ sinh, ăn uống và sức khoẻ. Con người là một thực thể sống, nhưng sự sống không thể tồn tại được nếu con người không được vệ sinh sạch sẽ, không được ăn uống tốt. Danh y Việt Nam, Tuệ Tĩnh (Thế kỷ XIV) đã từng nói: “Thức ăn là thuốc, thuốc là thức ăn, khoa học dinh dưỡng cho chúng ta biết: Thức ăn, các chất dinh dưỡng làm vật liệu xây dựng cơ thể con người. Các vật liệu này phải thường xuyên được đổi mới và thay thế thông qua quá trình hấp thụ và chuyển hoá các chất trong cơ thể. Ngược lại, khi cơ thể không được cung cấp đầy đủ các chất còi xương, khô mắt do thiếu VitaminA… dinh dưỡng sẽ không thể phát triển bình thường và đó là nguyên nhân gây ra bệnh tật như: Suy dinh dưỡng, còi xương, thiếu máu do thiếu sắt...
Ngay từ khi cất tiếng khóc chào đời, trẻ đã tiếp nhận với môi trường thiên nhiên, xã hội xung quanh trẻ, nề nếp được sự phát triển ở trẻ, thông qua lời nói, lời chào, hành động và các hoạt động trong ngày của trẻ. Vì thế, nề nếp thói quen cho trẻ ở lứa tuổi nhà trẻ là quan trọng tạo tiền đề cho trẻ phát triển toàn diện. Muốn thực hiện được mục tiêu trên thì vấn đề rèn luyện nề nếp thói quen vệ sinh tốt trong ăn uống cho trẻ phải được chú trọng thường xuyên liên tục, ở lứa tuổi này giáo viên là người quan trọng nhất trong việc đưa trẻ vào nề nếp thói quen. Bởi thế muốn rèn luyện nề nếp thói quen vệ sinh trong ăn uống ngay từ đầu cho trẻ, ngay từ những ngày đầu trẻ mới vào lớp cô giáo phải làm sao để trẻ cảm nhận được nguồn hạnh phúc, thấy mình được chấp nhận, được an toàn, được yêu mến và là thành viên trong cộng đồng trẻ đang hòa nhập. Quan hệ của cô với trẻ giàu cảm xúc thân thiết, yêu thương như quan hệ mẹ con. Vì vậy, những kỹ năng sư phạm của cô đòi hỏi phải linh hoạt, nhạy bén, kịp thời, phải có sự sáng tạo để phát hiện và đáp ứng những nhu cầu phát triển của trẻ.
Hoạt động sư phạm của cô giáo mầm non phải có định hướng, có mục đích để giáo dục, phát triển trẻ. Tác động sư phạm của cô giáo phải luôn thay đổi, phù hợp với nhu cầu phát triển của trẻ. Vì thế, nghệ thuật của cô thể hiện phải biết hòa nhập vào thế giới của trẻ, quên mình là người lớn để thực sự là người bạn của trẻ. Biết tôn trọng và đồng cảm với trẻ tạo nên không khí cởi mở lôi cuốn, thu hút trẻ, làm được như vậy thì trẻ sẽ dễ dàng nghe theo sự hướng dẫn của cô, biết vâng lời cô tin tưởng cô và coi cô như người mẹ thứ hai của mình. Từ đó giúp trẻ có kỹ năng cơ bản về những thói quen vệ sinh có nề nếp trong ăn uống. Muốn thực hiện được những mục tiêu trên thì vấn đề rèn luyện nề nếp thói quen vệ sinh tốt trong ăn uống cho trẻ mầm non phải được chú trọng thường xuyên liên tục và không ngừng được đổi mới.
Với mục tiêu của đổi mới giáo dục hiện nay là “Lấy trẻ làm trung tâm” để trẻ được hoạt động tích hơn, phát huy khả năng chủ động sáng tạo của trẻ một cách triệt để thì việc đổi mới hình thức tổ chức là một việc làm tất yếu. Giáo viên nên tạo điều kiện cho trẻ được hoạt động dưới nhiều hình thức, thông qua mọi hoạt động hàng ngày ở mọi lúc mọi nơi… thì việc hình thành nề nếp thói quen vệ sinh cho trẻ sẽ dễ tiếp thu hơn và đạt hiệu quả cao hơn.
Vậy vệ sinh cho trẻ là gì? Đó chính là những thói quen vệ sinh hàng ngày của trẻ như: Rửa mặt, rửa tay, đánh răng….mà trẻ biết và tự mình làm được. Vệ sinh không chỉ giúp cho trẻ sạch sẽ, đáng yêu mà nó còn giúp trẻ tránh được nhiều bệnh tật.
II/ THỰC TRẠNG
1. Những thuận lợi và khó khăn:
1.1. Thuận lợi
- Được sự quan tâm của ban giám hiệu, nhà trường đầu tư cơ sở vật chất như đã cung cấp đầy đủ trang thiết bị đồ dùng đồng bộ cho công tác chăm sóc giáo dục trẻ.
- Lớp có số trẻ được phân đúng độ tuổi.
- 100% trẻ được ăn bán trú tại trường.
- Sức khỏe của trẻ phát triển tốt.
- 02 Giáo viên trong lớp đều có trình độ chuyên môn trên chuẩn .
- Giáo viên yêu nghề mến trẻ, có nhiều kinh nghiệm trong việc chăm sóc giáo dục trẻ.
- Phụ huynh quan tâm đến việc chăm sóc giáo dục trẻ ở lớp.
1.2. Khó khăn
- Trẻ chưa có kỹ năng vệ sinh trong ăn uống như: Bốc thức ăn, gõ bát, uống nước canh … hay còn ngậm cơm, kén chọn thức ăn.
- Nhiều trẻ không có nề nếp trong mọi hoạt động.
- Một số trẻ mới đi học nên việc thích nghi với những nề nếp ở trường còn chưa có. Một số trẻ còn yếu, trí tuệ chậm phát triển nên việc rèn luyện các kỹ năng cho trẻ gặp nhiều khó khăn.
- Một số phụ huynh nhận thức chưa đầy đủ về công tác chăm sóc giáo dục trẻ.
2. Điều tra thực trạng:
Được sự phân công của Ban Giám Hiệu nhà trường, sau khi nhận lớp một thời gian, tôi đã bắt tay ngay vào khảo sát trẻ với 1 số nội dung như sau:
TT
|
Nội dung khảo sát
|
Tổng số học sinh
|
Đầu năm
|
Đạt
|
Chưa đạt
|
SL
|
Tỷ lệ
%
|
SL
|
Tỷ lệ
%
|
1
|
Kỹ năng bê ghế về bàn ăn.
|
22
|
9
|
41
|
13
|
59
|
2
|
Kỹ năng tự xúc cơm.
|
22
|
6
|
27
|
16
|
73
|
3
|
Kỹ năng nhặt cơm vãi vào khay.
|
22
|
6
|
27
|
16
|
73
|
4
|
Ho biết lấy tay che miệng
|
22
|
5
|
23
|
17
|
77
|
5
|
Không nói chuyện khi ăn.
|
22
|
8
|
36
|
14
|
64
|
* Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy
- Kỹ năng bê ghế về bàn ăn của trẻ chưa tốt, đa phần là cô bê giúp hoặc những trẻ tự bê ghế thì xách 1 tay, hoặc bê qua đầu, ...
- Kỹ năng nhặt cơm vãi vào khay thì chưa có cơm thì rơi vãi nhiều, có nhiều trẻ còn bốc cơm, trẻ thấy cơm rơi vãi thì gạt luôn xuống đất,….
- Kỹ năng ho biết che miệng của trẻ cũng rất yếu….
III/ BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
1. Lập kế hoạch rèn nề nếp, thói quen trong ăn uống cho trẻ .
Đối với giáo viên thì năng lực chuyên môn của người giáo viên có một tầm quan trọng to lớn, giáo viên là người trực tiếp hướng dẫn trẻ hoạt động Muốn đưa chất lượng về việc rèn luyện nề nếp, thói quen vệ sinh, ăn uống cho trẻ đạt hiệu quả cao, xuất phát từ tình hình thực tế, dựa vào đặc điểm sinh lý của trẻ tôi đi sâu nghiên cứu, tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp. Tôi đã xây dựng lên một kế hoạch về việc rèn nề nếp, thói quen vệ sinh, ăn uống cho trẻ như sau:
TT
|
THỜI GIAN
|
NỘI DUNG
|
1
|
Tháng 9,10
|
- Dạy trẻ bê ghế về bàn, ngồi ngay ngắn.
- Dạy trẻ tự xúc cơm.
|
2
|
Tháng 11
|
Rèn trẻ xếp hàng để rửa tay, lau mặt.
|
3
|
Tháng 12
|
Rèn trẻ biết nhặt cơm vãi vào khay.
|
4
|
Tháng 1
|
Rèn trẻ tự biết lau khô sau khi cô rửa tay cho.
|
5
|
Tháng 2
|
Rèn trẻ không nói chuyện khi ăn.
|
6
|
Tháng 3
|
Rèn trẻ khi ăn, ho biết lấy tay che miệng.
|
7
|
Tháng 4
|
Rèn trẻ biết cất bát đúng nơi quy định sau khi ăn.
|
2. Tạo thói quen vệ sinh cá nhân trước khi ăn cho trẻ.
Những thói quen vệ sinh ở trẻ không phải tự nhiên mà có, lại càng khó đạt được ở lứa tuổi 24-36 tháng. Chính vì vậy, vai trò của giáo viên và người lớn dạy bảo, hướng dẫn cho trẻ trong giai đoạn này là rất cần thiết và vô cùng quan trọng. Do đón, công tác chăm sóc dinh dưỡng và vệ sinh cá nhân cho trẻ trong trường mầm non là một nội dung quan trọng trong chương trình giáo dục Mầm non. Đối với lớp nhà trẻ, tôi đang phụ trách thì đây cũng là một trong những công tác luôn được nhà trường đặt lên hàng đầu.
Trẻ ở giai đoạn này hay bắt chước nhưng lại mau quên. Nếu không nhắc nhở thường xuyên, không hướng dẫn cụ thể thì trẻ không thể hình thành thói quen được. Tạo cho trẻ có thói quen vệ sinh trước khi ăn không chỉ đảm bảo sức khỏe cho trẻ, phòng tránh được các dịch bệnh thường gặp dễ xâm nhập vào cơ thể non nớt của trẻ mà còn rèn cho trẻ ý thức tự giác, biết xếp hàng để cô rửa tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh. Đó là một thói quen không thể thiếu trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ.
Trước bữa ăn, tôi cùng với giáo viên trong lớp đã cho trẻ ổn định chỗ ngồi, không cho trẻ đùa nghịch, chạy nhảy hoặc di chuyển từ chỗ này qua chỗ khác. Nên cho trẻ chọn một chỗ ngồi cố định. Khi trẻ đã ổn định chỗ ngồi, tôi tiến hành mời trẻ từng bàn bê ghế và ra xếp hàng. Khác với các lớp mẫu giáo, trẻ nhà trẻ chưa thể tự rửa tay một mình được nên cần có sự giúp đỡ của giáo viên trong lớp. Sau khi trẻ đi vệ sinh xong trẻ sẽ được xếp hàng để cô giáo lau mặt và rửa tay theo đúng quy trình rửa tay cho trẻ mà các cô đã được đào tạo. Khi vệ sinh cá nhân cho trẻ cũng phải quan tâm đến thời tiết nóng hay lạnh mà giáo viên có sự điều chỉnh kịp thời để đảm bảo sức khỏe cho trẻ. Mùa hè thời tiết ấm áp, cô dùng khăn mát và nước mát lau mặt, rửa tay cho trẻ. Nhưng khi mùa đông đến, thời tiết lạnh giá, nhất thiết giáo viên phải chuẩn bị khăn ấm, nước ấm rửa tay, lau mặt cho trẻ, mặc yếm cho trẻ.
Vệ sinh sạch sẽ trước khi ăn sẽ giúp trẻ thấy thoải mái, phấn khởi, trẻ tự tin hơn khi tham gia vào hoạt động ăn cùng các bạn.
* Khi thực hiện cô áp dụng Quy trình rửa tay bằng xà phòng có 6 bước cho trẻ:
+ Bước 1: Làm ướt hai bàn tay bằng nước sạch ,xoa xà phòng vào lòng bàn tay. Chà xát hai lòng bàn tay vào nhau.
+ Bước 2: Dùng ngón tay và lòng bàn tay này cuốn và xoay lần lượt từng ngón tay của bàn tay kia và ngược lại.
+ Bước 3: Dùng lòng bàn tay này chà xát chéo lên mu bàn tay kia và ngược lại.
+ Bước 4: Dùng đầu ngón tay của bàn tay này miết vào kẽ giữa các ngón của bàn tay kia và ngược lại.
+ Bước 5: Chụm 5 đầu ngón tay của tay này cọ vào lòng bàn tay kia bằng cách xoay đi xoay lại nhiều lần.
+ Bước 6: Xả cho tay hết xà phòng dưới nguồn nước sạch. Lau khô tay bằng khăn hoặc giấy sạch.
Ảnh 1: Cô rửa tay, lau mặt cho trẻ trước khi ăn
3. Tổ chức bữa ăn phù hợp tạo không khí cho trẻ.
Rèn cho trẻ có kỹ năng tự phục vụ trong giờ ăn là một việc hết sức quan trọng trong việc hình thành thói quen trong ăn uống của trẻ. Vì trẻ 24-36 tháng còn nhỏ, lại chưa đi lớp bao giờ, trẻ thường có những thói quen không tốt như: vừa ăn vừa chạy lung tung, khi ăn còn nghịch đồ chơi, hay vừa ăn vừa xem ti vi, chưa biết tự xúc cơm, không biết nhặt cơm rơi vãi, ăn xong chưa biết cầm cốc uống nước... Chính vì vậy, việc rèn cho trẻ nề nếp thói quen tốt trong giờ ăn là một việc làm không hề đơn giản.
Việc tạo cảm giác hứng thú trước khi ăn cho trẻ là vô cùng quan trọng. Tổ chức ăn uống cho trẻ phải đúng giờ với không khí thoải mái, vui vẻ để tạo cảm giác ngon miệng và mong muốn được ăn khi đến bữa. Chính vì vậy, trước giờ ăn tôi thường kể cho trẻ nghe những câu truyện vui, liên quan đến cách ăn uống, mang tính giáo dục cao hoặc cho trẻ chơi trò chơi, đọc thơ, hát vui vẻ. Không những thế, tôi cùng giáo viên trong lớp luôn nhẹ nhàng, động viên, khen ngợi kịp thời mỗi khi trẻ ăn ngoan, nghe lời cô.
Trong giờ ăn tôi thường sắp xếp 6 trẻ 1 nhóm, trẻ ăn chậm vào 1 nhóm, trẻ cá biệt vào 1 nhóm, để từ đó tôi có thể quan sát trẻ ăn dễ dàng hơn. Trên mỗi nhóm bàn có chuẩn bị khăn lau tay, khay đựng cơm vãi,..
Ví dụ: Lớp tôi có 22 trẻ tôi chia thành 4 nhóm bàn, trên mỗi nhóm có 2 khăn lau tay và 2 khay cho các con nhặt cơm vãi,...
Trước khi ăn tôi lau mặt, rửa tay cho trẻ. Khi rửa tay, lau mặt cho trẻ tôi trò chuyện với trẻ : “Cô đang làm gì đây?”, “Rửa tay lau mặt để làm gì?”. Trong khi chờ đợi rửa tay để tạo cho trẻ một không khí vui vẻ hứng khởi trước bữa ăn để trẻ ăn được ngon miệng tôi cho trẻ đọc thơ.
Ví dụ: Tôi cho trẻ đọc thơ “Giờ ăn”, “Rửa tay sạch”, “Chùi mũi”… Từ đó trẻ các thói quen tự phục vụ, các chuẩn mực hành vi được củng cố.
Ngoài ra tôi cho trẻ làm quen với tên gọi của các món ăn, các loại thực phẩm (thịt, cá, trứng, đậu, rau...) bằng cách nói chuyện về thức ăn mà trẻ đang ăn như: “Con ăn món gì? Thức ăn gì? Canh gì?..”. Qua đó tôi giúp trẻ hiểu được việc phải ăn nhiều loại thức ăn khác nhau.
Trong các bữa ăn cô giới thiệu cho trẻ biết món ăn và các chất dinh dưỡng mà trẻ sẽ được ăn trong món ăn, các món ăn đó được chế biến là nhờ bàn tay khéo léo của các cô nhà bếp bằng việc phối hợp các loại thực phẩm giàu chất dinh dưỡng tạo sự hứng thú cho trẻ khi ăn, đặc biệt là các món ăn mới, động viên trẻ ăn ngon, ăn hết suất không kén chọn mà phải ăn các thức ăn do cô nhà bếp chế biến theo thực đơn quy định các chất dinh dưỡng phù hợp lứa tuổi.
Ảnh 2: Trẻ ngồi theo nhóm bàn .
Khi chia cơm tôi bày bát ra khay đủ số trẻ trong nhóm, chia thức ăn mặn vào bát trước, xới non nửa bát cơm rồi trộn đều thức ăn và cơm rồi mới bê cơm về bàn cho trẻ. Bát cơm thứ hai chia tại bàn chia cơm, trộn đều rồi đem lại bàn ăn cho từng trẻ. Trong khi trẻ ăn tôi phối hợp với giáo viên trong lớp cùng dạy trẻ, hướng dẫn trẻ thực hiện các thao tác tự xúc cơm. Bên cạnh đó cô thường xuyên động viên, khen ngợi trẻ. Ngoài ra tôi còn kết hợp với phụ huynh khi về nhà cũng dạy trẻ tập xúc ăn như ở lớp. Có như vậy việc dạy trẻ của cô giáo mới có kết quả cao.
Ví dụ: Cô khen bạn Hoa cầm thìa đúng, biết nhặt cơm vãi vào khay,...
Khi con cầm thìa xúc cơm thật khéo như vậy tay con dẻo như diễn viên múa, mai sau con sẽ múa dẻo, đẹp và được đi biểu diễn ở nhiều nơi, được nhiều người biết đến và yêu quý. Qua việc tự xúc ăn trẻ rất hào hứng nên trẻ ăn rất ngon miệng và hết xuất.
Khi ăn: Dạy trẻ cầm thìa tay phải, ăn nhai từ tốn, không nhai nhồm nhoàm và nuốt vội. Không ngậm thức ăn lâu trong miệng, không vừa ăn vừa chơi, vừa nói chuyện, không được ra khỏi bàn ăn.
Khi ăn xong cô lau miệng lau tay cho trẻ dặn trẻ uống nước từ từ, không làm đổ, không làm vỡ cốc, không rót nước quá đầy, thò tay vào bình nước.
Khi ngủ cô cho trẻ nằm đúng chỗ nằm đúng tư thế, không nói chuyện, nghịch làm ảnh hưởng đến bạn khác.
4. Lồng ghép vệ sinh trong ăn uống vào các hoạt động .
4.1. Thông qua hoạt động vui chơi:
Thông qua hoạt động vui chơi cũng có thể lồng ghép được kỹ năng trong ăn uống cho trẻ chẳng hạn: Thông qua giờ hoạt động góc thì ở đó trẻ được chơi nhiều trò chơi mà nổi bật là trò chơi “Chơi với búp bê” trong trò chơi đó trẻ được chơi nấu ăn, cho búp bê ăn, chơi với các loại quả, con vật...
Ví dụ: Khi trẻ cho em búp bê ăn tôi rèn trẻ cầm thìa đúng cách, khi cho ăn xong tôi nhắc trẻ lau miệng cho em búp bê,...
Cho trẻ chơi các trò chơi như: Rửa mặt cho búp bê, rửa tay cho búp bê, luôn nhắc nhở trẻ khi chơi xong phải xếp đồ chơi gọn gàng, rửa tay sạch sẽ. Hay tôi lồng ghép giáo dục trẻ biết rửa chén, bát đĩa xoong, chảo, khi nấu ăn cho búp bê xong.
Ảnh 3: Rèn trẻ kỹ năng cầm thìa xúc cho em ăn
Thông qua các trò chơi đó trẻ sẽ biết sử dụng đồ dùng phục vụ việc ăn uống, tạo ra một số thức ăn, nước uống đơn giản, hình thành ở trẻ thói quen ăn uống tốt và giúp trẻ có thói quen vệ sinh, hành vi văn minh, lao động tự phục vụ ở trẻ, giáo dục trẻ tinh thần tập thể, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong mọi hoạt động, hình thành kĩ năng sống cho trẻ.
4.2. Thông qua các câu chuyện, bài thơ, bài hát
Hàng ngày các cháu đến lớp với mọi sinh hoạt đều là những hình thức để trẻ được rèn luyện. Đối với độ tuổi này để đưa các cháu vào nề nếp thói quen đâu phải là chuyện dễ và đơn giản. Thực tế các cháu còn rất bé, chưa có ý thức được như các anh chị lớn, điều này cũng là một thử thách cho cô giáo. Muốn tạo cho trẻ có được thói quen thường xuyên phải luôn nhẹ nhàng gần gũi và tình cảm với trẻ để uốn nắn trẻ hoặc thông qua bài hát, bài thơ, câu chuyện... trò chơi có nội dung nói về nề nếp thói quen. Vì ở lứa tuổi này, trẻ rất thích được nghe kể chuyện, những nội dung câu chuyện được trẻ nhớ lâu và khó phai mờ. Do đó tôi đã sáng tác ra một số câu chuyện để giáo dục trẻ về thói quen, hành vi tốt trong ăn uống:
Câu chuyện: Chiếc bánh rán.
Mai đang chơi đùa cùng các bạn thì mẹ Mai đi chợ về và mua cho Mai một chiếc bánh rán rất ngon. Mẹ gọi Mai về ăn bánh, Mai thích thú chạy về ngay và không kịp rửa tay, Mai cầm luôn chiếc bánh và ăn ngon lành. Khi ăn xong, Mai lại định chạy ra chơi tiếp cùng với các bạn thì Mai thấy đau bụng vô cùng. Mẹ hốt hoảng đưa Mai tới bác sĩ để khám. Bác sĩ hỏi : Cháu đã ăn những gì?
Mai trả lời bác sĩ: Cháu ăn bánh rán mẹ mua.
Bác sĩ hỏi tiếp: Thế trước khi ăn cháu có rửa tay không?
Lúc này Mai cúi mặt xuống trả lời: Cháu không ạ.
Bác sĩ liền mỉm cười trìu mến và nói với Mai: Lần sau cháu phải rửa tay trước khi ăn nhé, tay bẩn mà không rửa cứ thế ăn cháu sẽ bị đau bụng đấy.
Mai bẽn lẽn trả lời: Vâng ạ.
Từ đó, trước khi ăn gì Mai cũng đều tự giác đi rửa tay thật sạch sẽ.
Qua câu chuyện này, tôi giáo dục cho trẻ phải biết rửa tay trước khi ăn.
Hay qua bài thơ “Rửa tay sạch” trẻ cũng được giáo dục phải rửa tay trước khi ăn:
Rửa tay sạch
Cô dặn bé
Trước giờ ăn
Rửa tay sạch
Khi tay bẩn
|
Phải rửa ngay
Với xà phòng
Bé ghi lòng
Lời cô dạy
|
Bài thơ: “ Giờ ăn” cũng giáo dục trẻ tự xúc cơm ăn gọn gàng, không làm rơi vãi cơm ra bàn và phải ăn hết xuất
Giờ ăn
Đến giờ ăn cơm
Vào bàn bạn nhé
Nào thìa, bát, đĩ
|
Xúc cho gọn gàng
Chớ có vội vàng
Cơm rơi, cơm vãi
|
Bài thơ “ Ăn” giáo dục trẻ biết rửa tay trước khi ăn và ăn ngoan, ăn hết suất:
Ăn
Rửa tay sạch
Mặc yếm vào
Bé đứng trước
Lớn đứng sau
Dắt tay nhau
|
Ngồi vào ghế
Nhai thật kỹ
Nuốt cho ngon
Ăn hết cơm
Không rơi vãi
|
4.3. Hoạt động ngoài trời:
Để hình thành trí nhớ, ấn tượng sâu đậm cho trẻ, thì hoạt động đi dạo, thăm quan là rất hiệu quả. Hàng tháng, tôi cho trẻ đi thăm vườn rau của trường, vừa đi vưa đọc thơ “ Chăm rau”
Nhà em trồng một vườn rau
Em chăm, em bón bắt sâu đuổi gà
Rau xanh rau tốt mãi ra
Cả nhà ăn đủ thế là em vui.
Sau đó dùng hình thức gợi nhớ để trẻ nói được quá trình trồng và chăm sóc rau. Ăn nhiều rau cho ta nhiều Vitamin và muối khoáng, giúp cho mắt sáng và da dẻ hồng hào.
Ngoài ra, tôi còn liên hệ thực tế trong gia đình trẻ, tôi hỏi trẻ ở nhà các con đã được ăn những món gì được chế biến từ rau? Có buổi thăm quan, tôi cho trẻ quan sát cách trồng rau và có thể cho một số trẻ trồng rau cùng cô.
Qua buổi tham quan đó, trẻ sẽ có nhiều ấn tượng, hiểu biết và đưa được hứng thú của mình vào trong giờ học.
Giáo dục trẻ: khi nấu rau các con biết phải làm gì không? phải rửa rau…….
4.4. Qua giờ đón trả trẻ:
Giờ đón trẻ, trả trẻ, trò chuyện, tổ chức cho trẻ xem các loại tranh ảnh, chơi lô tô về các món ăn, các loại thực phẩm, kể tên về các món ăn trẻ được ăn ở gia đình.
Ví dụ: Trong giờ trò chuyện cô có thể gợi hỏi:
- Sáng nay các con ăn món gì ?
- Trước khi ăn con làm gì ?
- Khi xúc cơm,cháo con cầm thìa bằng tay nào?
- Khi ăn các con có làm rơi vãi cơm,cháo không?
- Khi ăn xong con phải làm gì?
Qua quá trình trao đổi và trò chuyện còn giúp gắn kết tình cảm giữa cô và trẻ, qua đó cũng giúp trẻ mạnh dạn hơn trong giao tiếp.
4.5. Trong giờ hoạt động chung:
Tôi thường lồng ghép nội dung giáo dục vệ sinh vào những lúc cần thiết (nếu được):
+ Ví dụ: Môn GDÂN, LQVH tôi thường sử dụng các bài hát, câu đố, bài thơ cung cấp kiến thức vệ sinh cho trẻ như : Bài hát “Chiếc khăn tay”, “Rửa mặt như mèo”,“Vì sao con mèo rửa mặt”, “Tay xinh của bé”, “ Khám tay”,… Dạy trẻ các bài thơ: “Giữ hàm răng đẹp”, “Tắm gội” , “Đôi dép xinh” ,“Rửa tay sạch”,“Đôi bàn tay của bé”.
+ Hoặc qua những câu chuyện , kể chuyện theo tranh :
Ví dụ: Câu chuyện “ Mẹ tắm cho em bé”.
- Mục đích: Củng cố cho trẻ biết cách giữ gìn vệ sinh các bộ phận cơ thể: mắt ,mũi ,miệng, tay, chân.
- Chuẩn bị: Tranh to và màu sắc đẹp “ Mẹ đang tắm cho em bé” một số câu hỏi để hỏi khi trẻ xem tranh, một búp bê để minh hoạ .
- Tiến hành: Đọc cho trẻ nghe bài thơ “ Yêu mẹ” Cô hỏi trẻ ở nhà ai thường tắm cho các con? Cô cho trẻ xem tranh “ Mẹ đang tắm cho em bé” và hỏi trẻ: Tranh vẽ gì đây các con? Mẹ đang làm gì? Bé đang làm gì? Sau đó cô kể cho cháu nghe câu chuyện theo sự sáng tạo của cô. Có thể kể như sau: Hôm qua chủ nhật, An ở nhà chơi với chị , trời nắng mà tay chân bị bẩn , mẹ tắm cho An , An thích lắm. Mẹ lần lượt gội đầu, rửa mặt, kỳ cọ tay chân và toàn thân một cách nhẹ nhàng bằng nước mát rượi. An cảm thấy cơ thể mình thật thoải mái và dễ chịu.
- Sau khi cô kể chuyện xong cô làm động tác minh hoạ: Gội đầu, rửa mặt, kỳ cọ chân tay trên búp bê cho trẻ xem, rồi cho trẻ tập minh hoạ lại các động tác theo cô . Qua việc trải nghiệm như vậy, trẻ có thêm một nhiều kinh nghiệm và khắc sâu những hành vi, thói quen tố
5. Tuyên truyền, phối hợp với phụ huynh.
Muốn trẻ hình thành được các thói quen vệ sinh, ăn uống tốt thì nhà trường và gia đình phải thống nhất nội dung, biện pháp giáo dục vệ sinh, cách ăn uống cho phụ huynh biết, yêu cầu phụ huynh cần theo dõi giúp đỡ và cho biết tình hình thực hiện ở nhà để cùng phối hợp giáo dục rèn luyện cho trẻ. Tôi thường tuyên truyền đến phụ huynh bằng các hình thức sau:
5.1. Tuyên truyền thông qua trang trí môi trường.
Trên góc tuyên truyền, tôi thường xuyên sưu tập những bài viết, chụp ảnh và treo những hình ảnh thực tế vì nó phản ánh các hoạt động vệ sinh của lớp nên rất được phụ huynh chú ý mỗi khi đón trả trẻ. Chính vì vậy, góc phụ huynh của lớp tôi được đặc biệt chú ý bởi những hình ảnh, nội dung tuyên truyền phong phú, hấp dẫn về giáo dục vệ sinh về các kỹ năng như: xúc cơm, bê ghế, rửa tay,...để phụ huynh xem và cùng phối hợp với cô rèn thêm trẻ, hình thành những thói quen tốt trong ăn uống cho trẻ. Ngoài ra tôi còn nhờ phụ huynh chụp ảnh hoặc quay những clip ngắn ở nhà như: bé xúc cơm, bé giúp mẹ cất ghế,...để cô treo hoặc chiếu lên tivi cho bé và các bạn cùng xem để trẻ hứng thú và tiếp tục làm tốt các kỹ năng hình thành các thói quen tốt trong ăn uống.
Ảnh 4: Góc tuyên truyền.
5.2.Tuyên truyền thông qua buổi họp phụ huynh:
Để có một sức khỏe tốt và hình thành thói quen vệ sinh sạch sẽ vào đầu năm học tôi đã tổ chức họp phụ huynh trao đổi với các bậc phụ huynh về tầm quan trọng của việc vệ sinh, ăn uống của trẻ. Phụ huynh cần quan tâm đến các cháu vì các cháu còn bé việc đầu tiên là không cho trẻ mang quà đến lớp, nên đánh răng vào buổi tối trước khi đi ngủ, ăn cơm xong xúc miêng nước muối, cắt móng tay, thường xuyên trao đổi với các bậc phụ huynh để cùng thống nhất cách rửa tay, rửa mặt ở lớp cũng như ở nhà nên rửa tay bằng xà phòng, rửa tay dưới vòi nước sạch.
Trao đổi gặp riêng với bậc phụ huynh nào có cháu thường xuyên ăn mặc chưa gọn gàng, mặt mũi nhem nhuốc như ở lớp tôi có cháu Tân, Thành, Dư …
Tôi đưa ra một vài minh chứng về tầm quan trọng của việc giữ gìn vệ sinh, cách ăn uống của trẻ đối với sức khoẻ của con người đặc biệt là với trẻ. Trẻ còn non nớt, sức đề kháng chưa cao. Tôi đưa một số hình ảnh về trẻ bị chân, tay, miệng và cho phụ huynh biết bệnh đó nguyên nhân chính là do vệ sinh cá nhân chưa sạch sẽ. Vì vậy nếu giữ vệ sinh sạch sẽ hàng ngày thì có thể tránh được 90% nguy cơ mắc bệnh.
Đối với cháu chưa có ý thức tốt tôi gặp riêng phụ huynh trao đổi để phụ huynh và cô giáo cùng tìm ra biện pháp giáo dục trẻ một cách tốt nhất.
Tôi thường xuyên vận động phụ huynh tuyên truyền các bài viết, bài thơ, vẽ tranh, câu chuyện có liên quan đến việc hình thành thói quen tốt trong ăn uống theo khoa học để đóng góp thêm tài liệu vào góc tuyên truyền của lớp. Vì đọc và kể cho trẻ nghe cũng góp một phần nhỏ tạo tiền đề cho trẻ có thói quen tốt trong ăn uống.
Một cách đơn giản nhất mà hàng ngày giáo viên và phụ huynh vẫn thường làm đó là trao đổi thông tin qua giờ đón, trả trẻ. Đây chính là thời điểm mà giáo viên và cả phụ huynh có thể quan tâm sát sao nhất đến tình hình của trẻ trong ngày, có cả sự tiến bộ, hay cả những điểm cần chú ý trong giáo dục cái hay cái đúng cho trẻ. Những thông tin được trao đổi trong giờ này thường được phụ huynh quan tâm đặc biệt.
Ảnh 5: Họp phụ huynh.
IV/ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Qua quá trình vào việc giúp trẻ có thói quen trong ăn uống, cộng với sự ủng hộ của các giáo viên trong lớp, cùng với sự chỉ đạo sát sao của Ban giám hiệu nhà trường, sự phối hợp của các bậc phụ huynh, gia đình cũng như các ban ngành. Cuối năm với 22 trẻ lớp tôi đã đạt được kết quả như sau:
1. Đối với trẻ
Nội dung khảo sát
|
Đầu năm
|
Cuối năm
|
Đạt
|
Chưa đạt
|
Đạt
|
Chưa đạt
|
SL
|
Tỷ lệ %
|
SL
|
Tỷ lệ
%
|
SL
|
Tỷ lệ
%
|
SL
|
Tỷ lệ
%
|
Kỹ năng bê
ghế
|
9
|
41
|
13
|
59
|
21
|
95
|
01
|
5
|
Kỹ năng tự xúc cơm
|
6
|
27
|
16
|
73
|
21
|
95
|
01
|
5
|
Kỹ năng nhặt cơm vãi vào khay
|
6
|
27
|
16
|
73
|
20
|
91
|
02
|
9
|
Ho biết lấy tay che miệng
|
5
|
23
|
17
|
77
|
19
|
86
|
03
|
14
|
Không nói chuyện khi ăn
|
8
|
36
|
24/36
|
67
|
20
|
91
|
02
|
9
|
* Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy:
Số lượng trẻ đạt yêu cầu ở các nội dung tăng lên rõ rệt. Kỹ năng tự xúc cơm của trẻ là tăng mạnh nhất so với đầu năm. Kỹ năng bê ghế về bàn ăn, nhặt cơm vãi vào khay của trẻ cũng có bước nhảy vọt. Đặc biệt khi ăn trẻ không còn nói chuyện riêng như lúc mới đi học.
2. Đối với phụ huynh
Tại gia đình phụ huynh phụ huynh đã rèn trẻ cách vệ sinh cũng như chế độ ăn theo cách hướng dẫn của giáo viên. Phụ huynh ngày càng tin tưởng vào cô giáo và nhà trường, họ đã chú trọng và quan tâm hơn đến thói quen trong bữa ăn của trẻ, vì vậy kiến thức, kỹ năng về dinh dưỡng, thói quen vệ sinh ngày một nâng cao. Phụ huynh thường xuyên trao đổi tình hình sức khỏe và nếp ăn uống của trẻ với giáo viên từ đó việc kết hợp giữa nhà trường và gia đình ngày càng gắn bó hơn.
3. Đối với giáo viên
- Được phụ huynh tin tưởng giúp giáo viên có tự tin hơn trong công tác giáo dục trẻ.
- Thông qua việc thường xuyên tổ chức bữa ăn theo quy định đã tạo cho trẻ có thói quen ăn uống sạch sẽ, văn minh, lịch sự, hình thành cho trẻ một số thói quen như: Biết rửa tay sạch trước khi ăn, biết chào mời, ngồi ngay ngắn trước khi ăn, không co chân lên ghế trong khi ăn, không để cơm rơi vãi, không nói chuyện riêng khi ăn. Ăn uống từ tốn, ăn chậm nhai kĩ, không xúc cơm và thức ăn sang bát của bạn.
- Với những biện pháp cơ bản trên và bằng những việc làm cụ thể của bản thân, sự quan tâm của ban giám hiệu nhà trường nên trẻ lớp tôi đã có thói quen tốt trong ăn uống nên đã đem lại hiệu quả cao trong công tác chăm sóc nuôi dưỡng trẻ. Vì vậy tỉ lệ suy dinh dưỡng giảm hẳn so với đầu năm học, 100% trẻ đều đạt sức khỏe cân nặng bình thường không có trẻ suy dinh dưỡng. Đặc biệt hơn là lớp tôi trong năm học không có trẻ nào bị mắc các dịch bệnh.
C. PHẦN KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
I/ KẾT LUẬN
Việc tạo cho trẻ có thói quen và vệ sinh tốt trong ăn uống vô cùng quan trọng. Nó không chỉ giúp trẻ tăng thêm tính tự lập mà các thói quen này còn theo trẻ lên lớp mẫu giáo và trong suốt cả cuộc đời của trẻ. Qua việc áp dụng những sáng kiến của mình, nhờ có sự phối kết hợp ăn ý của các đồng nghiệp trong lớp, tôi nhận thấy những biện pháp của mình có tính tích cực cao. Trẻ có tinh thần tự giác, tự lập cao, có thói quen, nề nếp, hành vi văn minh trong vấn đề ăn uống.
Trẻ mầm non nói chung và trẻ Nhà trẻ nói riêng đều đang chập chững bước qua những năm đầu đời với bao điều mới mẻ thú vị và cả những nguy cơ tiềm ẩn từ môi trường sống ngày càng ô nhiễm, làm ảnh hưởng tới sức khỏe của trẻ. Đó là một trong những nội dung giúp trẻ 24 - 36 tháng có được các điều kiện trên đó là công tác chăm sóc nuôi dưỡng trẻ trong trường mầm non. Mỗi một giáo viên cần phải nắm vững trách nhiệm của mình là đảm bảo nuôi dưỡng trẻ khỏe mạnh và an toàn. Phối hợp với phụ huynh giúp trẻ hình thành những kỹ năng, những thói quen, hành vi để trẻ có thể phục vụ chính bản thân trẻ, bảo vệ được cơ thể non nớt của chính mình, giúp cơ thể phát triển khỏe mạnh, sau này trở thành người công dân tốt, xứng đáng với sự yêu thương của gia đình và xã hội.
Chính vì vậy mà trong năm học qua bản thân tôi đã tích cực học tập, nghiên cứu, thực hành nhằm tìm ra các biện pháp để giúp trẻ 24 - 36 tháng có thói quen tốt trong ăn uống. Hoạt động đó đã đem lại kết quả đáng phấn khởi như: Kiến thức về giáo dục nếp thói quen tốt trong ăn uống, nâng cao được sự nhận thức của phụ huynh về công tác chăm sóc nuôi dưỡng trẻ. Chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng trẻ được nâng lên một bước, 100% trẻ đều đạt yêu cầu về vệ sinh tốt trong ăn uống.
Bài học kinh nghiệm:
Qua một thời gian tìm tòi nghiên cứu các biện pháp thích hợp, lớp tôi đã có một kết quả thật tốt. Để có được kết quả như vậy tôi đã rút ra những kinh nghiệm sau:
- Trau dồi kiến thức vệ sinh trong ăn uống rất cần thiết.
- Bản thân luôn là tấm gương sáng, mẫu mực từ lời nói, cử chỉ, không phân biệt giữa các trẻ.
- Thực hiện tốt quy chế một ngày.
- Rèn kỹ năng trẻ mọi lúc mọi nơi đặc biệt quan tâm đến trẻ chậm, trẻ cá biệt.
- Giáo viên trao đổi thường xuyên với phụ huynh những nội dung mà cô giáo và trẻ đã thực hiện ở lớp để cùng tìm ra cách giải quyết tốt hơn. Không ngừng tự học tập bồi dưỡng kiến thức, kĩ năng thực hành về dinh dưỡng và tổ chức bữa ăn cho trẻ một cách khoa học và hợp lý, phù hợp với lứa tuổi của trẻ.
II/ KHUYẾN NGHỊ
Sau một thời gian nghiên cứu và áp dụng những biện pháp trên tôi đã thu được một số thành công nhất định, và kết quả trên trẻ rất cao. Song để giúp trẻ có thói quen vệ sinh trong ăn uống tôi xin có một số ý kiến đề xuất như sau:
1. Về phía phòng giáo dục:
Kính mong PGD tổ chức các lớp bồi dưỡng, những buổi chuyên đề rèn kỹ năng sống, các buổi kiến tập thực tế nhiều hơn để giáo viên trong huyện được học tập, nâng cao trình độ cũng như khả năng giảng dạy của mình.
2. Về phía nhà trường:
- Tổ chức cho giáo viên được đi tham quan, kiến tập các giờ ăn cho trẻ nhà trẻ để giáo viên được học tập.
3. Đối với giáo viên:
- Cần sưu tầm, nghiên cứu để tìm tòi những hình thức tổ chức bữa ăn, cũng như các biện pháp rèn trẻ có thói quen trong ăn uống sáng tạo hơn.
- Cần có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của việc rèn thói quen trong ăn uống đối với sự phát triển thể chất của trẻ.
- Kết hợp với phụ huynh để có biện pháp rèn thói quen cho trẻ một cách tốt nhất ở gia đình và nhà trường.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân tôi trong quá trình thực hiện. Những việc tôi làm đã thành công và có kết quả tốt trong lớp tôi phụ trách. Tuy nhiên do điều kiện, thời gian chưa nhiều nên vẫn còn có phần hạn chế, tôi mong muốn nhận được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo để đề tài của tôi đạt hiệu quả cao hơn, giúp tôi thành công hơn nữa trong công tác giảng dạy.
Tôi xin trân thành cảm ơn!
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chăm sóc- bảo vệ sức khỏe từ 0- 6 tuổi - Bộ giáo dục và đào tạo- 1989
2. Vệ sinh trẻ em – NXB Đại học Quốc gia Hà nội – 2001 của tác giả: Nguyễn Thị phong, Trần Thanh Tùng.
3. Giáo trình dinh dưỡng trẻ em – NXB Đại học quốc gia Hà nội – 2001 của Nguyễn kim Thanh
4. Tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm non – NXB Đại học sư phạm Hà nội – 1994 của Nguyễn Ánh Tuyết